• Tiếng Việt

Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam và thách thức đổi mới hệ thống kiểm soát nội bộ theo Thông tư 13(1)

13/05/2020 Proateco Tin tức,

Ngành Ngân hàng Việt Nam đã đạt được sự phát triển và mở rộng mạnh mẽ trong giai đoạn 1997-2007, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn này. Nhiều tổ chức tín dụng mới được cấp phép hoạt động, cùng với làn sóng chuyển đổi các ngân hàng nông thôn thành  ngân hàng đô thị với quy mô vốn pháp định lớn hơn đã thúc đẩy sự phát triển và mở rộng nhanh chóng của hệ thống ngân hàng về quy mô. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đã tác động tiêu cực và làm bộc lộ nhiều vấn đề và rủi ro của hệ thống ngân hàng Việt Nam.  Một trong những vấn đề nổi cộm, góp phần làm sâu thêm rủi ro của hệ thống ngân hàng đó là công tác xây dựng và vận hành của hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàng. Sự khủng hoảng hệ thống các tổ chức tín dụng dẫn đến việc Chính phủ thông qua Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng theo từng giai đoạn. Hệ quả tất yếu của các đề án cơ cấu lại buộc các tổ chức tín dụng xem xét lại chiến lược kinh doanh và chương trình tái cơ cấu của riêng mình với sự giám sát chặt chẽ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Một thách thức lớn các tổ chức tín dụng Việt Nam đối mặt trong chương trình cơ cấu lại, tạo nền tảng cho phát triển bền vững đó  là đổi mới, hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ. Trong bài viết này, các thuật ngữ “tổ chức tín dụng” và “ngân hàng” có thể sử dụng hoán đổi lẫn nhau do có sự trích dẫn ý kiến, bài viết của nhiều tác giả khác nhau.

Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam. Hệ thống ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế thông qua huy động các nguồn vốn nhàn rỗi và tài trợ cho các cá nhân, tổ chức có nhu cầu phục vụ các mục đính phát triển kinh doanh hoặc tiêu dùng. Sự lớn mạnh của hệ thống ngân hàng đóng góp đáng kể vào sự phát triển của nền kinh tế và ngược lại. Có thể thấy cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 đã tác động mạnh đến ngành ngân hàng Việt Nam. Theo Báo cáo của VCBS(2), đến cuối năm 2010, Việt Nam có 5 ngân hàng quốc doanh, 37 ngân hàng cổ phần, 53 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 100% vốn nước ngoài, và 5 ngân hàng liên doanh. Trong giai đoạn 2008-2015, các ngân hàng đối mặt với tình trạng bất ổn kéo dài, với các đặc điểm (i) tình trạng lãi suất thị trường cao, có thời điểm lên tới 25-35% năm, (ii) thực trạng và cấu trúc các khoản nợ xấu cao, trực tiếp tác động đến khả năng hoạt động bền vững của nhiều ngân hàng, (iii) khó khăn thanh khoản và nhiều tổ chức tài chính, ngân hàng đứng trước nguy cơ phá sản. Thực trạng này gửi đi thông điệp ngành ngân hàng đang đứng trước rủi ro dễ bị tổn thương hệ thống và buộc các nhà làm chính sách và cơ quan quản lý đưa ra đề án cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, chia làm hai giai đoạn: giai đoạn 2011-2015 và giai đoạn 2016-2020. Vào cuối  năm 2015, sau nhiều thương vụ hợp nhất, sát nhập và mua lại bắt buộc, số lượng các ngân hàng thương mại trong nước giảm xuống còn 33. Một số tổ chức tín dụng được mua lại bắt buộc với giá không (0) đồng, được xác định là mất khả năng thanh khoản hoặc đứng trước nguy cơ phá sản với vốn chủ sở hữu âm tại thời điểm mua lại.

Đề án cơ cấu lại các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015(3).  Theo Gia Bảo (2017)(4), Đề án cơ cấu lại giai đoạn này đã giúp (i) cải thiện thanh khoản của hệ thống ngân hàng, (ii) xử lý các tổ chức tín dụng yếu kém thông qua sát nhập, rút giấp phép, giải thể và mua lại bắt buộc với giá không (0) đồng, (iii)  Nợ xấu NPL giảm xuống 2.72%, (iv) lãi xuất giảm xuống từ mức cao 25%-35%/ năm trong năm 2011, và (v) ổn định thị trường vàng. Tuy nhiên, còn nhiều vấn đề phát sinh và còn tồn tại chưa được giải quyết sau giai đoạn này: (i) thiếu sót trong quản trị ngân hàng của một số chủ sở hữu, người điều hành ngân hàng đã giúp cho chủ sở hữu rút được lượng vốn lớn thông qua các khoản vay dưới chuẩn cho các doanh nghiệp sân sau của họ, phục vụ cho các mục đích kinh doanh riêng hoặc chuyển ngược trở lại ngân hàng cho mục đích tăng vốn  chủ sở hữu của họ trong ngân hàng, (ii) chất lượng các khoản cho vay, đầu tư giảm sút từ việc áp dụng phân loại tài sản đảm bảo không phù hợp và việc giảm giá trị của các tài sản đảm bảo, gây áp lực nợ xấu NPL tăng cao, (iii) công tác xây dựng năng lực hoạt động và tuân thủ các tiêu chuẩn Basel II còn chậm.

Đề án cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020 (5).  Đề án giai đoạn 2 tiếp tục cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém và xử lý và đưa nợ xấu xuống dưới mức 3%. Theo Lê Vân (2018)(6), đến cuối năm 2017, tỷ lệ nợ xấu nội bảng toàn ngành ngân hàng ở mức 2,34% và nợ xấu đã bán cho VAMC chưa xử lý được còn trên 200.000 tỷ, ở mức 3,29% tổng dư nợ. Có thể thấy, tổng mức nợ xấu của toàn ngành ngân hàng Việt Nam đang ở mức 5,63% vào cuối năm 2017. Do đó, để có thể giảm tỷ lệ nợ xấu toàn ngành xuống mức dưới 3% vào năm 2020, toàn ngành ngân hàng sẽ phải xử lý giảm số nợ xấu tương đương 2,63% dư nợ toàn ngành tính tại thời điểm cuối 2017. Theo Báo cáo phân tích triển vọng ngành ngân hàng năm 2018 của Công ty Chứng Khoán Đại Nam(7), thì mức chênh lệch giữa lãi suất cho vay và huy động bình quân NIM (net interest margin) của ngành ngân hàng đã tăng từ 2,7% năm 2015 lên 3% năm 2017 và có xu hướng tăng trong năm 2018. Như vậy, có thể thấy ngoài các biện pháp tác động giảm nợ xấu như tăng trưởng dương dư nợ tín dụng, kiểm soát nợ xấu mới phát sinh, thanh lý tài sản đảm bảo khoản nợ xấu, thu hồi nợ xấu, thì nguồn tài chính từ việc gia tăng lợi nhuận trước thuế hàng năm của các ngân hàng sẽ góp phần quyết định vào xử lý và đưa mức nợ xấu thực của ngành ngân hàng xuống dưới 3% vào năm 2020 thông qua việc trích và xử lý dự phòng đã trích đối với các khoản nợ xấu.

Đồng thời, Chính phủ cũng khẳng định cam kết tăng cường năng lực các tổ chức tín dụng thông qua áp dụng các tiêu chuẩn Basel II (phương pháp chuẩn hóa) với tối thiểu 12-15 ngân hàng vào năm 2020. Để thực hiện yêu cầu trên, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư 41(8) có hiệu lực từ 1-1-2020 quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, nhằm thực hiện trụ cột thứ nhất trong khuôn khổ Basel II.  Theo Khuôn khổ Basel II(9), ba trụ cột bao gồm: (i) trụ cột 1 – yêu cầu về vốn tối thiểu, bao gồm quy định tiêu chuẩn tối thiểu quản lý vốn trên cơ sở mức độ rủi ro cao hơn đối với các rủi ro thị trường, hoạt động và tín dụng, (ii) trụ cột 2 – quy trình giám sát, bao gồm tăng cường vai trò, trách nhiệm giám sát và kiểm soát đối với các hoạt động đánh giá vốn, đảm bảo mức đủ vốn, mô hình xếp hạng nội bộ, chi phí vốn, giám sát chủ động các mức độ vốn và các hoạt động điều chỉnh, và (iii) trụ cột 3 – tính kỷ luật của thị trường, bao gồm yêu cầu các ngân hàng tăng cường công bố thông tin, đặc biệt các phương pháp đánh giá rủi ro tín dụng và hoạt động, và mở rộng, tăng cường tính minh bạch trong công bố thông tin ra thị trường. Trên thực tế ngay từ đầu năm 2016, mười ngân hàng trong nước đã được Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam thông báo lựa chọn thực hiện thí điểm chuẩn mực xác định vốn và thực hiện quản trị rủi ro phù hợp với các tiêu chuẩn Basel II. Các ngân hàng này bao gồm BIDV, Vietcombank, Vietibank, Techcombank, ACB, VPbank, MB, MSB, Sacombank and VIB. Tuy nhiên để thực hiện thành công xác định vốn theo Basel II, các ngân hàng cần phải xác định tính toán và duy trì mức vốn phù hợp và cải thiện quy trình quản lý rủi ro, hệ thống thông tin quản lý, tăng năng lực quản trị và điều hành, cũng như tuân thủ các yêu cầu an toàn hoạt động. Các yêu cầu này không hề dễ ràng thực hiện. Việc thiếu khung quy định pháp lý đồng bộ trong quản trị rủi ro và kinh nghiệm trong triển khai là các cản trở lớn nhất trong việc thực hiện trụ cột 1 Basel II.  Tuy vậy, ngày 29-11-2018 đánh dấu sự thành công bước đầu trong thực hiện xác định vốn theo Basel II khi hai ngân hàng Vietcombank và  VIB đã được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước trao quyết định thực hiện tuân thủ Thông 41 từ 1-1-2019, sớm hơn một năm so với quy định.

Yêu cầu pháp lý mới đối với hệ thống kiểm soát nội bộ của các tổ chức tín dụng Việt Nam. Hệ thống kiểm soát nội bộ đã được quy định trong Luật Các tổ chức tín dụng và thực hiện theo sự hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Cho đến hết năm 2018, quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ thực hiện theo quy định tại Thông tư 44(10). Thông tư này mới ở mức khái quát và chưa có các nội dung hướng dẫn đánh giá mức đủ vốn thực hiện trụ cột thứ nhất của Basel II, cũng như hướng dẫn thực hiện khung quản lý rủi ro đầy đủ. Nhằm cung cấp hướng dẫn đầy đủ về hệ thống kiểm soát nội bộ và thúc đẩy việc tuân thủ các chuẩn mực theo Basel II, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã ban hành Thông tư 13(1) quy định về hệ thống kiểm soát nội bộ của các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Thông tư này sẽ có hiệu lực từng phần từ 1-1-2019 và hiệu lực toàn bộ từ 1-1-2021. Thông tư 13 giải thích ý nghĩa các thuật ngữ liên quan và quy định thực hiện cụ thể năm nội dung: (i) giám sát của quản lý cấp cao, bao gồm Hội đồng Quản trị, Ban Kiểm soát và Tổng Giám đốc đối với hệ thống kiểm soát nội bộ, quản lý rủi ro, đánh giá mức đủ vốn và kiểm toán nội bộ, (ii) kiểm soát nội bộ nhằm đảm bảo tuân thủ pháp luật, ngăn chặn xung đột lợi ích, tăng cường  trách nhiệm và thúc đẩy văn hóa kiểm soát, cũng như hệ thống thông tin quản lý, (iii) quản lý rủi ro, đảm bảo xác định, đánh giá, kiểm soát và giám sát rủi ro trọng yếu liên quan đến rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động, rủi ro thị trường, thanh khoản và các rủi ro khác trên sổ ngân hàng, (iv) đánh giá nội bộ về mức đủ vốn nhằm đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn, các kịch bản bất lợi và đáp ứng yêu cầu quản trị rủi ro, phát triển kinh doanh, và  (v) kiểm toán nội bộ, đảm bảo sự vận hành độc lập là tuyến bảo vệ thứ 3.

Thông tư 13 giải thích “kiểm soát nội bộ”  là việc kiểm tra, giám sát đối với các cá nhân, bộ phận trong việc thực hiện cơ chế, chính sách, quy định nội bộ, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, văn hóa kiểm soát nhằm kiểm soát xung đột lợi ích, kiểm soát rủi ro, đảm bảo hoạt động của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đạt được các mục tiêu đề ra đồng thời tuân thủ quy định của pháp luật và “hệ thống kiểm soát nội bộ” là tập hợp các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định nội bộ, cơ cấu tổ chức của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài được xây dựng phù hợp với quy định tại Luật các tổ chức tín dụng, Thông tư này và các quy định của pháp luật có liên quan và được tổ chức thực hiện nhằm kiểm soát, phòng ngừa, phát hiện, xử lý kịp thời rủi ro và đạt được yêu cầu đề ra. Hệ thống kiểm soát nội bộ thực hiện giám sát của quản lý cấp cao, kiểm soát nội bộ, quản lý rủi ro, đánh giá nội bộ về mức đủ vốn và kiểm toán nội bộ.

Trên thực tế, chưa có nhiều nghiên cứu hay báo cáo đánh giá về hệ thống kiểm soát nội bộ được công bố tại Việt Nam. Kim Anh (2018)(11) đã kết luận trong nghiên cứu của mình về sự tương quan tích cực giữa hệ thống kiểm soát nội bộ và các thành phần của nó với kết quả của doanh nghiệp. Nếu vận hành hiệu quả, hệ thống kiểm soát nội bộ có thể giúp giảm thiểu rủi ro và tăng hiệu quả hoạt động. Các chốt kiểm soát yếu có thể không giúp giảm thiểu được rủi ro tác động tiêu cực đến kết quả hoạt động kinh doanh.  Thanh Thủy (2016)(12) trong Báo cáo nghiên cứu đánh giá về hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàng thương mại Việt Nam  đã sử dụng Khung kiểm soát nội bộ của COSO(13) để phân tích đánh giá về hệ thống kiểm soát nội bộ của các ngân hàng, bao gồm các hợp phần  (i) môi trường kiểm soát, (ii) đánh giá rủi ro, (iii) các hoạt động kiểm soát, (iv) thông tin và trao đổi thông tin, và (v) các hoạt động giám sát. Nghiên cứu này đã chỉ ra một số hạn chế cơ bản cũng như nguyên nhân của các hạn chế đó theo từng hợp phần nghiên cứu: (i) Thực trạng về môi trường kiểm soát: Các yếu tố của môi trường kiểm soát có chỉ số trung bình rất thấp cho thấy chất lượng môi trường kiểm soát trong các ngân hàng thương mại hiện nay còn nhiều vấn đề bất cập, bao gồm việc hầu hết các ngân hàng thương mại chưa chú trọng đến việc quy định và truyền thông về tính chính trực và các giá trị đạo đức, Ban Quản trị chưa thực sự quan tâm tới việc duy trì và phát triển hệ thống kiểm soát nội bộ trong ngân hàng; không phải lúc nào Ban Giám đốc cũng thận trọng trong việc xây dựng các ước tính kế toán như trong việc phân loại nợ, trích lập dự phòng; (ii) Thực trạng về quy trình đánh giá rủi ro: Mặc dù ngân hàng thương mại đã xây dựng những văn bản trong việc đánh giá rủi ro. Tuy nhiên, ngân hàng thương mại chưa thực sự chủ động vào việc nhận diện rủi ro, thường tập trung vào việc phát hiện và giảm thiểu rủi ro; (iii) Thực trạng về hệ thống thông tin và trao đổi thông tin: Hiện nay trong các ngân hàng thương mại, với đặc điểm quy mô lớn, cơ cấu tổ chức bao gồm nhiều chi nhánh, phòng giao dịch thì việc thiết lập các kênh thông tin hiện nay còn nhiều hạn chế. Trong một ngân hàng thương mại thì thông tin chủ yếu diễn ra theo một chiều từ trên xuống dưới. Một số bộ phận chưa đảm bảo việc thực hiện các thủ tục bởi cán bộ có trình độ chuyên môn; (iv) Thực trạng về các hoạt động kiểm soát: Về cơ bản các ngân hàng thương mại đã ban hành các quy định, tuy nhiên chưa thực sự mô tả đầy đủ nhiệm vụ của các thành viên trong tổ chức của mình. Tại một số tổ chức tín dụng có tình trạng thành viên của Hội đồng quản trị tham gia trực tiếp vào việc phê duyệt các giao dịch/quyết định kinh tế cụ thể. Bên cạnh đó, các cách thức kiểm soát khác nhau tại ngân hàng chưa được áp dụng một cách đầy đủ và thường xuyên; (v) Thực trạng về giám sát các kiểm soát: Qua kết quả  khảo sát về chất lượng hệ thống kiểm soát nội bộ có thể nhận thấy, về cơ bản các ngân hàng thương mại hiện nay chưa thực hiện duy trì thành phần giám sát các kiểm soát với điểm trung bình rất thấp. Các nhà quản lý cấp cao chưa thực sự quan tâm tới việc kiểm soát thường xuyên trong quá trình hoạt động thường chỉ khi có những sự kiện bất thường xảy ra thì mới thực hiện kiểm soát.

Thách thức đổi mới hệ thống kiểm soát nội bộ theo yêu cầu mới. Có thể thấy Báo cáo của Thanh Thủy (2016)(12) đã phản ánh cơ bản thực trạng hệ thống kiểm soát nội bộ trong giai đoạn nghiên cứu, áp dụng Khung kiểm soát nội bộ theo COSO để đánh giá. Tuy nhiên với việc ban hành Thông tư 13, quan điểm cũng như các quy định cụ thể về hệ thống kiểm soát nội bộ đã có sự thay đổi cơ bản so với Thông tư 44 và đặt ra yêu cầu cao hơn với hệ thống quản trị ngân hàng, quản lý rủi ro, kiểm soát nội bộ và các đảm bảo thông qua ba tuyến bảo vệ độc lập của hệ thống kiểm soát nội bộ, nhằm tạo cơ sở trong việc triển khai thành công Đề án cơ cấu lại các tổ chức tín dụng, gắn với xử lý nợ xấu và tuân thủ các tiêu chuẩn theo Basel II.  Theo ghi nhận của Thoibaonganhang.vn(14), Thông tư 13 ra đời được giới chuyên môn đánh giá cao trong việc có nhiều quy định mới theo thông lệ quốc tế, vấn đề không chỉ dừng ở việc các tổ chức tín dụng phải đảm bảo tuân thủ, mà việc thực hiện Thông tư 13 còn đảm bảo sự an toàn, tồn tại và phát triển của mỗi ngân hàng trong thị trường cạnh tranh ngày nay. Tuy nhiên, vẫn còn rất nhiều ngân hàng thương mại sẽ phải tích cực rà soát và xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ theo các quy định mới. Như vậy, việc triển khai thực hiện hệ thống kiểm soát nội bộ mới không chỉ giúp các tổ chức tín dụng nắm bắt cơ hội, mà còn giúp vượt qua các thách thức trong xây dựng năng lực cạnh tranh, đảm bảo cho mục tiêu phát triển bền vững.

Thứ nhất, yêu cầu về sự kết nối chặt chẽ giữa các hệ thống quản trị ngân hàng, quản lý rủi ro, và kiểm soát nội bộ. Theo Tinnhanhchungkhoan.vn(15), thông thường, tại các nước khác, cơ quan thanh tra – giám sát thường ban hành ít nhất 9 loại văn bản khác nhau để quy định về kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ, quản trị doanh nghiệp, quản lý các rủi ro về tín dụng, thị trường, hoạt động, thanh khoản, lãi suất trên sổ ngân hàng và quy trình đánh giá an toàn vốn nội bộ (ICAAP). Tuy nhiên, với Thông tư 13, Ngân hàng Nhà nước đã rút ngắn được rất nhiều nội dung có tính chất tương đồng giữa các loại văn bản trên, đặc biệt là các quy định về quản trị doanh nghiệp.

Theo đánh giá của tác giả bài viết này, có thể thấy, “quản lý rủi ro” có phạm vi rộng hơn “kiểm soát nội bộ” và tập trung vào việc nhận diện, đo lường và các phương án kiểm soát rủi ro (gồm các biện pháp phòng tránh, chấp nhận, chia sẻ và giảm thiểu rủi ro) trong khi “kiểm soát nội bộ” là một phần  của quản lý rủi ro chủ yếu tập trung vào việc kiểm soát giảm thiểu rủi ro. Quản lý rủi ro chú trọng vào các mục tiêu chiến lược và xây dựng chiến lược trong khi kiểm soát nội bộ thì không,  do việc đạt được các mục tiêu chiến lược  còn phụ thuộc vào các yếu tố bên ngoài, không trong khả năng kiểm soát của ngân hàng. Ở một phạm vi rộng hơn, thì quản lý rủi ro là một cấu phần hợp nhất trong khuôn khổ “khung quản trị” ngân hàng nói chung. Như vậy, việc kết nối chặt chẽ giữa quản trị, quản lý rủi ro và kiểm soát nội bộ theo quy định tại Thông tư 13 sẽ góp phần tách bạch giữa quản trị và điều hành, kiểm soát các sung đột lợi ích, kiểm soát rủi ro và xây dựng nền tảng quản trị hiện đại theo các chuẩn mực tốt nhất. Sự thành công của các ngân hàng trong hoạch định và triển khai chiến lược kinh doanh phụ thuộc rất lớn vào quy trình quản lý chiến lược, bao gồm từ tầm nhìn, sứ mệnh, khẩu vị rủi ro được chuyển đổi và thấm nhuần trong các mục tiêu chiến lược và hiệu quả, hiệu lực của việc vận hành có hiệu lực và hiệu quả hệ thống kiểm soát nội bộ nhằm giúp các đạt được các mục tiêu đề ra.

Thứ hai, việc xác định mức đủ vốn là vấn đề không đơn giản, đòi hỏi có sự phân bổ nguồn lực hợp lý. Thách thức lớn nhất cho các ngân hàng chính là sức ép tăng vốn khi tỷ lệ an toàn vốn (CAR) giảm xuống dưới mức tối thiểu khi áp dụng phương pháp tính toán mức đủ vốn (ICAAP) và đảm bảo mức vốn phù hợp cho tăng trưởng kinh doanh trong tương lai. Theo dự báo của VCBS(16), mức vốn cần thiết tăng thêm đối với ba ngân hàng lớn nhất gồm Vietcombank, BIDV, and Vietinbank sẽ là 1,1 tỷ USD để đạt mức CAR 8% và cần thêm 2,2 tỷ USD để đạt mức CAR 9% khi áp dụng phương pháp tính toán mức đủ vốn theo ICAAP theo chuẩn Basel II. Vốn cấp 2 thường được các ngân hàng ưu tiên hơn do không pha loãng tỷ lệ sở hữu của cổ đông và duy trì được tỷ lệ kiểm soát. Tuy nhiên, mức trần áp dụng trong huy động vốn cấp 2 tương đương với quy mô vốn cấp 1 là cản trở lớn nhất cho các ngân hàng trong tăng huy động nguồn vốn này, bên cạnh chi phí huy động nguồn vốn này. Tỷ suất hoàn vốn đầu tư có thể làm giảm sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư tương lai với các chương trình gọi vốn cấp 1 khi hệ số ROE có thể bị ảnh hưởng không nhỏ khi chi phí tuân thủ gia tăng và quy mô vốn chủ sở hữu tăng vượt quá khả năng đáp ứng tăng trưởng tài sản sinh lời bền vững của các ngân hàng.

Thứ ba, Thông tư 13 tạo sân chơi bình đẳng cho các thành viên tham gia thị trường bằng cách quy định các yêu cầu tối thiểu của các hợp phần hệ thống kiểm soát nội bộ. Tuy nhiên, nguồn lực và năng lực của từng tổ chức tín dụng có thể khác nhau. Do vậy, sự sẵn sàng và tốc độ triển khai đảm bảo tuân thủ quy định của thông tư nằm ở chính sự cam kết mạnh mẽ của đội ngũ lãnh đạo cấp cao và việc phân bổ nguồn lực cho việc thực hiện tại mỗi tổ chức tín dụng. Với việc nhiều tổ chức tín dụng đã niêm yết trên thị trường chính thức và đã có kế hoạch niêm yết theo yêu cầu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam trong các đề án cơ cấu lại ngân hàng, thị trường sẽ ghi nhận các tổ chức tốt và thực hiện không tốt. Bằng cách thực hiện tuân thủ đúng thời hạn các yêu cầu, các tổ chức tín dụng tạo dựng được uy tín tốt hơn và có được sự thừa nhận của các cơ quan quản lý nhà nước. Do vậy, tổ chức tín dụng sẽ chịu sức ép bị nhiều đối thủ vượt lên phía trước trong lộ trình tuân thủ Thông tư 13 và 41.

Thứ tư, yêu cầu pháp lý mới về hệ thống kiểm soát nội bộ thúc đẩy các tổ chức tín dụng tái hoạch định cấu trúc và chiến lược cạnh tranh và đổi mới hệ thống quy trình, chính sách của mình. Các ngân hàng có thời gian cho sự thay đổi để đảm bảo tuân thủ, và bản chất thực sự đó là quy trình quản lý sự thay đổi. Sự thành công sẽ phụ thuộc vào nhiều nhân tố: (i) cách thức các ngân hàng chuẩn bị cho sự thay đổi, (ii) liệu các ngân hàng có đặt nó trong lộ trình ưu tiên với sự cam kết mạnh mẽ từ Hội đồng quản trị và các cán bộ quản lý, (iii) liệu các ngân hàng có khả năng phân bổ vốn đầy đủ và thực hiện các kế hoạch huy động vốn tăng thêm, (iv) liệu các ngân hàng có làm tốt công tác xây dựng, điều chỉnh các quy trình chính sách phù hợp quy định mới về hệ thống kiểm soát nội bộ, và (v) vượt qua các trở lực cản trở sự thay đổi từ các áp lực nội tại trong mỗi tổ chức.

Thứ năm, vai trò mới của kiểm toán nội bộ là tuyến bảo vệ độc lập thứ ba trong ba tuyến bảo vệ của hệ thống kiểm soát nội bộ. Vai trò của Kiểm toán nội bộ có sự thay đổi căn bản theo Thông tư 13 từ kiểm toán tuân thủ, cung cấp sự đảm bảo sang phương pháp áp dụng kiểm toán trên cơ sở rủi ro, cung cấp sự đảm bảo cũng như đóng góp gia tăng giá trị cho tổ chức thông qua các ý kiến tư vấn, góp ý nhằm hoàn thiện hệ thống quản lý rủi ro, kiểm soát nội bộ, cũng như trong quá trình ra quyết định. Theo Tinnhanhchungkhoan.vn(15), công việc kiểm toán nội bộ sẽ bao gồm việc kiểm tra, đánh giá độc lập về việc tuân thủ cơ chế, chính sách, quy định nội bộ về hệ thống kiểm soát nội bộ ngân hàng theo quy định của Thông tư 13, gồm giám sát quản lý cấp cao, kiểm soát nội bộ, quản lý rủi ro và đánh giá nội bộ mức đủ vốn nhằm xác định tồn tại, hạn chế và nguyên nhân. Ngoài ra, kiểm toán nội bộ còn thực hiện rà soát, đánh giá độc lập tính thích hợp, tuân thủ quy định của pháp luật của cơ chế, chính sách, quy định nội bộ về hệ thống kiểm soát nội bộ. Có thể thấy, thách thức lớn nhất trong xây dựng chức năng kiểm toán theo Thông tư 13 là đảm bảo kiểm toán nội bộ được xây dựng và vận hàng phù hợp các chuẩn mực quốc tế, duy trì sự độc lập về tổ chức, khách quan, đảm bảo đáp ứng kỳ vọng của các bên liên quan bao gồm Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Ban điều hành, cũng như cơ quan quản lý nhà nước.

Kết luận. Các đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng đợt 1 và đợt 2 gắn với xử lý nợ xấu được Chính phủ thông qua đã đem đến sự thay đổi tích cực trong hệ thống ngân hàng theo hướng áp dụng các thông lệ tốt nhất và chuẩn mực quốc tế và yêu cầu các tổ chức tín dụng thực hiện các thay đổi quản trị căn bản, đặt nền móng cho sự phát triển bền vững lâu dài. Các yêu cầu pháp lý mới về hệ thống kiểm soát nội bộ theo Thông tư 13 của Ngân hàng Nhà nước không chỉ đặt ra các thách thức mà còn tạo ra cơ hội cho các tổ chức tín dụng xây dựng chiến lược kinh doanh bền vững và thành công trong tương lai.

Nguồn tài liệu tham khảo:

(1) Thông tư 13/2018/TT-NHNN ngày 18-05-2018 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định về Hệ thống kiểm soát nội bộ của ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài.

Nguồn: bài viết của TS Trịnh Thanh Bình đăng trên Tạp chí ngân hàng

zalo